Phát động bắc phạt Hàn_Thác_Trụ

Năm 1203, Đặng Hữu Long đi sứ nước Kim trở về tấu rằng nước Kim suy yếu, Kim chủ Cảnh hôn dung nhu nhược bên ngoài có Thát Đát quấy nhiễu vùng biên, trong nước dân tình khốn khổ, trong triều có sủng phi lộng thần nắm quyền, sẽ mau chóng mất nước. Hàn Thác Trụ nghe tin, rất vui mừng và tích cực chuẩn bị đánh Kim, khôi phục Trung Nguyên. Ngay mùa đông năm đó, Thác Trụ dùng Tham tri chính sự Trương Nham suất quân Hoài Đông, Đồng tri Xu mật viện Trình Tùng xuất quân Hoài Tây, Khâu Sùng giữ Minh châu, Tân Khí Tật cầm quân ở Chiết Đông, Lý Dịch làm Kinh Ngạc đô thống kiêm tri Tương Dương, bề ngoài nói là đề phòng giặc cướp gây hấn nhưng thực chất là chuẩn bị bắc phạt. Lại thêm có An phủ sứ Chiết Đông Tân Khí Tật dâng sớ nói nước Kim sẽ mất, Trịnh Dĩnh, Đặng Hữu Long phụ hòa vào, nên ý muốn bắc phạt của Thác Trụ càng mạnh. Dương Phụ, Phó Bá Thành cho rằng không nên dùng binh, liền bị bắt tội.

Để bắt đầu việc bắc phạt, Thác Trụ đề nghị cho truy phong Nhạc PhiHàn Thế Trung. Trước đó vào thời Hiếu Tông, Hàn Thế Trung được truy phong làm Đan vương, Nhạc Phi chỉ được ban thụy Vũ Mục. Nay Thác Trụ cho lập miếu của Thế Trung, truy phong Nhạc Phi là Ngạc vương, Lưu Quang Thế là Phu vương (1204)[9]. Lại truy đoạt quan tước của Tần Cối, cải thụy là Mậu Sửu (nghĩa là "xằng bậy")[10]. Thác Trụ sai Hứa Cập Chi trấn giữ Kiến Khang, Phí Sĩ Dần giữ Hưng Nguyên nhưng cả hai không chịu liền bị bãi chức. Thác Trụ dùng Trương Hiếu Bá, Trương Nham làm Tham tri chính sự, Tiền Tượng Tổ đồng tri Xu mật viện sự. Vào tháng 12 ÂL năm 1204, Trần Tự Cường xin theo khuôn khổ thời vua Hiếu Tông, lập ti Quốc dụng để kiểm soát tài chính. Ninh Tông nghe theo, dùng Trần Tự Cường, Phí Sĩ Dần, Trương Nham đứng đầu ti này. Hộ bộ thượng thư Lý Đại Tín dâng thư can gián nên bị Hàn Thác Trụ điều ra phủ Bình Giang. Ba kẻ kia nắm được ti Quốc dụng và ra sức vơ vét tiền của nhân dân khiến châu quận tao động. Thác Trụ tiếp tục cho đào sông, mở đường, chế tạo vũ khí, rèn luyện quân đội... chuẩn bị tiến lên miền bắc.

Năm 1205, Ninh Tông cải niên hiệu là Khai Hi[9]. Lấy Hoàng Phủ Bân làm tri phủ Tương Dương, thất lộ chiêu thảo phó sứ, Quách Nghê làm Tri phủ Dương châu kiêm Sơn Đông, Kinh Đông chiêu phủ sứ. Ninh Tông còn cho Hàn Thác Trụ ba ngày mới phải lên triều một lần, để ấn tam tỉnh ở tư đệ của ông, quyền thế của Thác Trụ đã mạnh lại dùng Tô Sư Đán làm An Viễn quân tiết độ sứ, Cáp Môn sự. Trong năm này, Vũ học sinh Hoa Nhạc dâng sớ xin chém Hàn Thác Trụ, Tô Sư Đán, Chu Quân để tạ thiên hạ. Thác Trụ giận lắm, đày Hoa Nhạc ra phủ Kiến Ninh.

Nghe tin triều Tống động binh, bên Kim cử Bộc Tán Quỹ đưa quân đến Biện Kinh phòng thủ. Lúc này Thác Trụ đã dùng Khâu Sùng làm Giang Hoài tuyên phủ sứ, Trình Tùng làm Tứ Xuyên tuyên phủ sứ, Ngô Hi làm phó sứ, lệnh các nơi gia tăng quân số. Bộc Tán Quỹ cử sứ đến Lâm An, hỏi về việc hòa nghị Long Hưng trước kia, triều Tống trả lời rằng tăng quân để đề phòng giặc cướp. Vua Kim bèn cho án binh bất động. Lúc sứ Kim là Triệu Chi Kiệt đến Tống, Thác Trụ lệnh Lễ tán quan thách đấu bằng cách xúc phạm Kim Thế Tông, Chi Kiệt tức giận vào triều hỏi nguyên do. Chu Chất nói sứ Kim vô lễ phải chém, Ninh Tông không nghe và cho Chi Kiệt trở về. Chi Kiệt giận dữ bỏ về nước. Tiền Tượng Tổ dâng sớ nói lúc này chưa nên dùng binh với Kim, Thác Trụ không nghe và bãi chức Tượng Tổ[9].

Thác Trụ dùng Ngô Hi làm Thiểm Tây, Hà Đông chiêu phủ sứ, Quách Nghê làm Sơn Đông, Kinh, Lạc chiêu phủ sứ, Triệu Thuần kiêm chức Kinh Tây Bắc lộ chiêu phủ sứ. Quân Tống khởi đầu thuận lợi, lấy được của Kim bốn châu tân Tức, Bảo Tín, Dĩnh Thượng, Hồng Huyền. Thác Trụ sai Trực học sĩ Lý Bích thảo chiếu phạt Kim. Chiếu viết

Đạo trời vốn sẵn đẹp, Trung Quốc tất phải giữ cái lý của mình, lại được lòng người quy thuận, quyết báo cựu thù. Bọn Rợ ngu xuẩn kia dựa vào minh ước mà sinh sát trăm họ, tham lam vơ vét. Điều đó ta không muốn nhưng chúng cho là đúng. Chúng đã đưa quân cướp sách, đốt sạch khác nào bầy dã thú. Nay kẻ có tội phải bị trừng phạt; ta sẽ ra quân với thế lực hùng mạnh để giành lại quyền lợi cho trăm họ. Xa gần được tin thảy đều xúc động. Quân dân phải nhớ đến nỗi nhục của tổ tông, gắng sức lập công, không được bỏ lỡ cơ hội này.

Tuy nhiên diễn biến chiến trường ngày một xấu đi. Hai tướng Kim là Bộc Tán QuỹHoàn Nhan Khuông đánh bật quân của Quách Nghê ra khỏi Kì châu. Hoàng Phủ Bân bại binh ở Đường châu, Lý Sảng đánh Thọ châu thất bại. Lúc này Ngô Hi ở đất Thục lại mưu phản, sai người đến nước Kim đầu hàng, cầu phong, tình nguyện dâng bốn châu ở Thiểm Tây là Giới[11], Thành[12], Hòa[13], Phượng[14]. Thác Trụ muốn lấy lòng Ngô Hi nên phong cho ông ta làm Thục vương, không ngờ Chu Hi đã nhận tước vương theo sắc phong của giặc Kim. Tuy nhiên sang năm 1207, Hi bị An Bính giết chết, bốn châu Thiểm Tây trở về với Tống.

Về phần Hàn Thác Trụ thấy quân Tống liên tục thua trận thì lo lắng, đến tháng 6 ÂL bèn bãi chức Đặng Hữu Long, lấy Khâu Sùng làm Lưỡng Hoài tuyên phủ sứ, đóng ở Dương châu[9]. Thác Trụ lại hối hận vì đã dùng binh, cứ oán hận Tô Sư Đán đề nghị bậy bạ nên theo lời Lý Bích mà bãi chức Sư Đán, tịch thu gia sản, an trí ở Thiều châu; lấy Trương Nham làm tri Xu mật viện sự, Lý Bích làm Tham tri chính sự. Tháng 8 ÂL năm đó, triều đình trị tội các tướng bại trận, trong đó Quách Trác bị chém đầu ở Kinh Khẩu, Lý Nhữ Dực, Vương Đại Tiết, Lý Sảng bị đày ra Lĩnh Nam.

Cuối năm 1206, Bộc Tán Quỹ phân quân thành chín lộ đánh xuống phía nam. Hàn Thác Trụ thất kinh, lo nghĩ đến nỗi sau một đêm thì tóc đã bạc trắng, sau đó vội điều Khâu Sùng giữ chức Thiêm thư Xu mật viện sự, đốc binh mã Giang Hoài để chống Kim. Có người khuyên Khâu Sùng bỏ Hoài, giữ Giang. Khâu Sùng nói

Nếu bỏ Hoài thì địch sẽ áp sát Giang. Ngang nhiên dâng hiểm địa Trường Giang cho địch thì đại sự còn gì nữa. Ta chỉ còn biết sống chết với Hoài Nam, không còn cách nào.

Khâu Sùng phòng giữ Lưỡng Hoài, giao tranh với quân Kim nhiều trận vẫn chưa phân thắng thua, kéo dài đến giữa năm 1207. Bộc Tán Quỹ thấy không thể đánh nhanh thắng nhanh nên sinh ra mệt mỏi, lại thêm tình hình Thiểm Tây bất lợi bèn nảy ra ý giảng hòa, mới sai Hàn Nguyên Tĩnh (cháu năm đời của Ngụy Trung Hiến vương Hàn Kì) sang trại quân Tống bàn định nghị hòa, đe dọa sẽ san phẳng phần mộ tông tộc Hàn thị ở Tương châu. Hàn Nguyên Tĩnh sang Tống báo với Khâu Sùng ý định nghị hòa của người Kim. Khâu Sùng cũng sai Lưu Tá đến gặp Bộc Tán Quỹ yêu cầu văn thư nghị hòa và các điều khoản. Bộc Tán Quỹ muốn triều Tống xưng thần, cắt đất, nộp đầu kẻ gây sự, Khâu Sùng trả lời bọn Tô Sư Đán đã bị cách chức, Bộc Tán Quỹ nói

Hàn Thác Trụ nếu không muốn dùng binh thì Tô Sư Đán có dám gây sự không. Rõ ràng các vị đang lừa ta.

Khâu Sùng sai sứ sang trại Kim, hứa trả lại Hoài Bắc và tiền triều cống trong năm, Bộc Tán Quỹ tạm lui về Hạ Thái. Đầu năm 1207, Khâu Sùng sai người về triều báo về đòi hỏi giết kẻ chủ mưu của Bộc Tán Quỹ. Hàn Thác Trụ giận quá liền bãi chức tuyên phủ sứ của Khâu Sùng, dùng Trương Nham lên thay. Trong lúc đó quân Kim lại chuẩn bị đánh tiếp, đã phá Giai châu, đánh Tương Dương, trong khi đất Thục vẫn đang bị nguy cấp. Lúc đó Bộc Tán Quỹ đã chết, Hàn Thác Trụ quyết định sai Tiêu Sơn thừa Phương Tín Nhụ đi sứ nước Kim bàn việc nghị hòa. Người Kim đòi Tống xưng thần cắt đất và nộp đầu kẻ gây sự, Tín Nhụ không chịu và bị Kim bắt giữ. Mãi đến khi An Bính lấy lại Đại Tản quan, Hoàn Nhan Tông Hạo đành cho Tín Nhụ được cầm phúc thư quay về, trong thư yêu cầu Tống triều xưng thần, giữ nguyên biên giới Hoài Hà; hoặc nếu vẫn muốn làm nước cháu thì phải cắt Lưỡng Hoài lấy Trường Giang làm ranh giới, đồng thời nộp đầy kẻ gây sự, tăng thuế năm vạn, một ngàn vạn tiền khao quân sĩ. Phương Tín Nhụ vào yết kiến, báo với Thác Trụ

Người Kim muốn năm khoản: Cắt Lưỡng Hoài, Tăng thuế, Trả lại những kẻ bị bắt, Nộp tiền khao quân. Còn điều thứ năm thực không tiện nói ra.

Thác Trụ bảo nói thẳng. Tín Nhụ đáp

Thứ năm là nộp thủ cấp thái sư.

Thác Trụ biến sắc, phẩy tay đứng dậy rồi tâu xin Ninh Tông, bãi quan Tín Nhụ ba bậc, điều ra Giang Lâm Quân[15]. Lại dùng Triệu Thuần làm Tuyên Hoài chế trí sứ thay Trương Nham trấn giữ Giang Hoài vào tháng 9 ÂL, chuẩn bị bắc phạt một lần nữa. Trăm họ ở Lưỡng Hoài trước đây vì việc bắc phạt của Thác Trụ đã phải chịu rất nhiều khổ cực, đến đây nghe Thác Trụ lại muốn dùng binh thì trong ngoài đều oán hận.